Trong bài viết này, VinaCamera.com giới thiệu các khái niệm cơ
bản trong nhiếp ảnh và ảnh số (Basic concepts in photography and
digital photography). Bài viết sẽ thường xuyên được bổ sung và cập nhật.
Để các bạn tiện theo dõi trên máy ảnh số hiện chưa được Việt hóa,
VinaCamera.com sẽ giải thích kèm các thuật ngữ tiếng Anh.
Cửa chập (shutter):
Là mành chắn được đóng mở cho phép ánh sáng lọt qua để đi tới phim hay
bộ cảm biến khi bấm máy chụp. Khoảng thời gian mành mở để ánh sáng lọt
(qua mành) vào phim hay bộ cảm biến nhận ánh sáng đối với máy ảnh số –
cũng chính là thời gian phơi sáng của phim hay bộ cảm biến (exposure
time) – được điều chỉnh bởi tốc độ cửa chập (shutter speed) và thường
được tính bằng giây và phần của giây, ví dụ 1 giây, 1/60 (một phần 60
của giây), 1/3200 (một phần 3200 của giây). Tốc độ cửa chập càng nhanh
cho phép chụp được các đối tượng di chuyển nhanh mà không bị nhòe hình
do “dừng” được hình ảnh trong một khoảnh khắc rất nhỏ, ví dụ để “dừng”
được chuyển động của một con chim đang bay, tốc độ cửa chập phải đạt
được tối thiểu từ 1/1250 đến 1/1600 giây mới đảm bảo không bị nhòe. Tốc
độ cửa chập càng nhanh đòi hỏi ánh sáng càng mạnh mới đảm bảo ảnh không
bị quá tối.
Khẩu độ mở (apature):
Là lỗ lọt sáng nằm trên ống kính của máy ảnh. Độ to nhỏ của khẩu độ được
điều chỉnh bằng thông số f (f-number), ví dụ f/2.8 hay f/32, và phụ
thuộc khả năng của ống kính. Các khẩu độ phổ biến gồm f/1.4, f/2, f/2.8,
f/4, f/5.6, f/8, f/11, f/16, and f/22. Lưu ý: thông số f này càng nhỏ
thì độ mở của lỗ lọt sáng càng lớn, ví dụ f/5.6 cho lỗ lọt sáng lớn hơn
so với f/8, như vậy, f/5.6 cho nhiều ánh sáng lọt qua hơn so với f/8 –
đây là cánh tính hay làm nhiều người nhầm lẫn về khẩu độ mở. Các ống
kính càng tốt (và càng đắt tiền do đòi hỏi công nghệ sản xuất cao hơn)
cho phép mở khẩu độ càng to, hiện nay hãng Leica đã sản xuất ống kính
thông thường với độ mở lên tới f/0.95. Khẩu độ mở to (thông số f nhỏ)
cho phép ánh sáng lọt vào phim nay bộ cảm biến nhiều hơn, tạo khả năng
tăng tốc độ cửa chập (shutter speed) giúp đảm bảo hình không bị nhòe (do
rung tay hay vật chuyển động), nhất là trong các môi trường ánh sáng
yếu mà vẫn bảo đảm ánh sáng của ảnh. Tuy nhiên, khẩu độ mở còn chi phối
chiều sâu của ảnh (depth of field): Khẩu độ mở càng to càng làm giảm
chiều sâu của ảnh.
Căn nét / lấy nét (focus):
Điều chỉnh ống kính (nhiều khi là cả vị trí của máy ảnh) để căn chỉnh
tạo hình ảnh sắc nét trên phim hay bộ cảm biến. Ở một số máy ảnh, khi
điều chỉnh, vị trí của phim hay bộ cảm biển cũng di chuyển để tạo độ
nét. Lưu ý: có nhiều người còn gọi việc này là “canh nét”.
Tiêu điểm (focal point):
Là điểm trên trục quang học (của ống kính) ở đó các tia sáng (sau khi đã
đi qua các thấu kính) tạo thành hình ảnh sắc nét của đối tượng được
chụp ảnh. Việc điều chỉnh ống kính (và vị trí của máy ảnh) để hình ảnh
sắc nét nằm trên phim hay bộ cảm biến gọi là lấy/căn/canh nét.
Tiêu cự (focal length):
Khoảng cách giữa bề mặt của phim (hay bộ cảm biến nhận sáng ở máy ảnh
số) tới trung tâm quang học của ống kính (gồm hệ thấu kính). Tiêu cự
thường được tính bằng milimet (mm) và được ghi trên ống kính. Đối với
định dạng phim (kích cỡ cảm biến toàn khổ) 35mm, tiêu cự ở 50mm được coi
là tiêu chuẩn (normal, thường được đọc là nóc-man – ở tiêu cự này hình
ảnh qua ống kính sát thực với hình ảnh nhìn thông thường qua mắt người
nhất, và cho độ chính xác cao nhất). Các tiêu cự ngắn hơn 50mm được
gọi là góc rộng (wide) và các tiêu cự dài hơn 50mm có thể được gọi là
lớn hay tê-lê (tele). Ở cùng một khoảng cách giữa máy ảnh và đối tượng
cần chụp, ống kính góc rộng cho hình ảnh rộng hơn (phù hợp với chụp một
nhóm người hay toàn cảnh trong nhà, v.v…) còn ống tele giúp chụp được
đối tượng to hơn trong ảnh. Ghi chú: Việc sản xuất các ống tele có khẩu
độ mở lớn (f-number nhỏ) đòi hỏi kỹ thuật cao, nên các ống kính này
rất đắt).
Ống phóng và ống cố định (zoom lens & fixed lens):
Các ống kính có khả năng thay đổi tiêu cự gần xa được gọi là các ống
zoom. Các ống chỉ có một tiêu cự duy nhất gọi là ống cố định (fixed lens
/ prime lens). Các chỉ số này thường được ghi trên trên ống kính hoặc
trên thân máy (máy liền ống kính) với chỉ số tiêu cự nhỏ nhất tới lớn
nhất kèm ký hiệu X (đọc là nhân), ví dụ 17-50mm, 18-135mm hay 12x. Ghi
chú: Thuật ngữ tiếng Việt “phóng” và “cố định” ở đây chỉ được dùng để
giải thích; trên thực tế ở Việt Nam, người chơi ảnh thường sử dụng thuật
ngữ vay mượn trong tiếng Anh và gọi là ống zoom (đọc là dum) và ống
fixed (đọc là phích).
Tỷ lệ phóng quang học và kỹ thuật số (optical zoom & digital zoom):
Tỷ lệ phóng quang học (optical zoom) là khả năng phóng to hay thu nhỏ
hình ảnh đối tượng được chụp ở cùng một khoảng cách từ máy ảnh tới đối
tượng trên ảnh chụp được tạo ra qua điều chỉnh ống kính (hệ thống thấu
kính bên trong ống kính). Đối với các máy ảnh số, việc phóng to thu nhỏ
này còn có thể được thực hiện bằng cách sử dụng tính năng zoom kỹ thuật
số (digital zoom) để phóng to một phần hình ảnh thu nhận được qua ống
kính sao cho bằng với kích thước toàn bộ của khuôn hình. Tưởng tượng
đơn giản, bạn có một hình to bằng khổ giấy A4, bạn cắt lấy một góc phần
tư của ảnh và đem ra hàng photocopy phóng to lên gấp 4 lần sẽ được một
hình to bằng khổ giấy A4 với những chi tiết đã chọn to hơn trước gấp 4
lần. Việc phóng to như vậy thường làm giảm chi tiết và chất lượng của
ảnh. Việc làm này cũng có thể thực hiện trên máy tính mà không cần tính
năng zoom số của máy ảnh. Vì vậy, khi mua máy ảnh, người ta thường
quan tâm tới tỷ lệ phóng to quang học hơn là phóng to kỹ thuật số. Ghi
chú: Cũng như trên, các thuật ngữ phóng to thu nhỏ ở đây được dùng chủ
yếu để giải thích, trên thực tế ở Việt Nam, phần lớn mọi người đều sử
dụng từ vay mượn là “zoom” với các cách nói như “dum” ra, “dum” vào hay
“dum” to, “dum” nhỏ.
Chế độ căn nét (focus mode):
Chế độ điều chỉnh ống kinh để căn nét cho hình ảnh. Thông thường có hai
loại là căn nét thủ công bằng tay (manual focus) hoặc căn nét tự động
(auto focus). Ở chế độ căn nét tự động, nhiều hãng máy ảnh còn phân biệt
giữa căn nét cho các vật đứng im và các vật chuyển động.
Chiều sâu ảnh trường (depth of field – DOF):
Đối với một số trường hợp, do sử dụng ống kính hay khoảng cách giữa các
đối tượng được chụp, khi căn nét một đối tượng thì các đối tượng khác ở
trước và sau đối tượng căn nét bị nhòe đi, những trường hợp như vậy sẽ
cho hình ảnh gọi là nông về chiều sâu của ảnh; trong những trường hợp
khác, các đối tượng trước và sau đối tượng được căn nét vẫn tương đối
nét hoặc thậm chí có độ nét ngang bằng với đối tượng căn nét. Trong các
trường hợp trình bày sau này, ảnh có chiều sâu lớn hơn. Hiệu ứng này
được tạo ra bởi nhiều yếu tố khác nhau bao gồm tiêu cự (focal lengh),
khẩu độ mở ống kính (f-number), cự ly chụp (khoảng cách từ máy ảnh tới
đối tượng chụp). Khẩu độ mở càng lớn, tiêu cự càng dài và cự ly chụp
càng ngắn thì chiều sâu của ảnh càng giảm, và ngược lại. So với ống kính
tiêu chuẩn (normal lens), ống góc rộng cho chiều sâu ảnh lớn hơn nếu
đặt ở khẩu độ mở (f-number) như nhau, còn các ống tele sẽ cho chiều sâu
nông hơn.
Đây là một khái niệm quan trọng trong nhiếp ảnh, nhất là trong việc
tạo tính nghệ thuật cho một bức ảnh. Một cách đơn giản hơn để hiểu khái
niệm này là khoảng cách giữa các đối tượng (đối tượng lấy nét, đối
tượng trước và sau đối tượng lấy nét) có độ nét chấp nhận được trong
một bức ảnh. Khoảng cách này càng xa thì ảnh càng có chiều sâu. Ảnh
phong cảnh thường có chiều sâu lớn để mọi vật đều nét (nhìn rõ chi
tiết), ảnh chân dung thường có chiều sâu nông để người xem tập trung
vào người được chụp (hay khuôn mặt) hơn là các cảnh vật xung quanh
(thường nhòe đi để không gây chú ý cho người xem).
Bô-kê (bokeh / boke):
Bô-kê là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Nhật có nghĩa là “nhòa mờ”
(blur), được sử dụng trong nhiếp ảnh ngày nay để mô tả hiện tượng nhòa
mờ nhưng mịn của vùng xung quanh điểm được căn nét trong khuôn hình một
bức ảnh có chiều sâu ảnh trường nông do hiệu ứng của ống kính tạo ra.
Bô-kê tạo cho người xem cảm giác mịn màng dễ chịu ở vùng xung quanh
điểm lấy nét và thường được sử dụng để tạo tính nghệ thuật trong nhiếp
ảnh. Đây là khái niệm khó đo lường và thường được đánh giá bằng mắt
thường. Chất lượng bô-kê có thể được đánh giá bằng các vòng tròn ánh
sáng nhòa mờ, mịn và phân bố ánh sáng đều (hơn là chỉ tập trung sáng ở
đường viền của mỗi hình tròn) xung quanh các điểm sáng ngoài vùng nét
trong bức ảnh. Các ống kính có nhiều mảnh thép tạo lỗ lọt sáng
(apature) hoặc các mảnh này cắt cong sẽ tạo được hiệu ứng các hình tròn
mờ mịn tốt hơn và cho chất lượng bô-kê đẹp hơn. Các ống kính có khẩu
độ mở lớn hơn (f-number nhỏ hơn) có khả năng giảm chiều sâu và tạo
bô-kê đẹp hơn.
ISO (International Organization for Standardization):
Đơn vị tính độ nhạy của phim hay của bộ cảm biến nhận ánh sáng ở máy ảnh
số do Tổ chức tiêu chuẩn thế giới qui chuẩn. Độ nhạy ISO ở các máy ảnh
số thường được tính từ 80 tới 25000 và càng ngày càng cao hơn. Đối với
phim nhựa truyền thống, độ nhạy được qui định ở loại phim, ví dụ phim
ISO100, ISO400; đối với máy ảnh số, có thể thay đổi ISO thông qua chức
năng điều chỉnh ISO trên máy. Máy ảnh loại tốt cho phép điều chỉnh ISO
cao hơn. Độ nhạy ISO càng lớn cho phép giảm thời gian lộ sáng (phơi
sáng) – tức là tăng tốc độ cửa chập (shutter speed). Tuy nhiên, ISO càng
lớn thường làm cho ảnh càng bị nhiễu (noise) nhiều hơn, khi phóng to
bị rạn và sần. Trong điều kiện ảnh sáng tốt, nên để ISO thấp nhất có
thể. Các cách tính khác đối với phim nhựa bao gồm ASA (American
Standards Association – Hội tiêu chuẩn Hòa Kỳ) và DIN (Deutsches
Institut für Normung – Viện tiêu chuẩn Đức).
Phơi sáng (exposure):
Một pô ảnh (gốc từ pose trong tiếng Pháp – còn gọi chệch đi là “bô”;
tiếng Anh là exposure) phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Về ánh sáng, một pô
ảnh là kết quả của sự kết hợp các yếu tố tốc độ cửa chập (shutter
speed), khẩu độ mở (f-number) và độ nhạy ISO. Ba yếu tố này sẽ được kết
hợp tăng giảm từng yếu tố theo ý muốn (và nhiều khi là ngoài ý muốn)
của nhiếp ảnh gia để đạt được hiệu ứng ánh sáng tối ưu so với mong muốn
cho bức ảnh. Ở cùng một tốc độ của chập, khẩu độ mở càng lớn và ISO
càng cao thì ảnh càng sáng; ở cùng một khẩu độ mở, tốc độ càng chậm và
ISO càng cao thì ảnh cáng sáng; ở cùng một chỉ số ISO, tốc độ cửa chập
càng chậm và khẩu độ mở càng lớn thì ảnh cũng càng sáng. Để làm cho bức
ảnh tối đi, bạn có thể tăng tốc độ cửa chập, giảm khẩu độ mở hoặc hạ
chỉ số ISO (hoặc kết hợp cả ba). Lưu ý, tỷ lệ giữa các yếu tố tốc độ
cửa chập, khẩu độ mở và ISO còn ảnh hưởng tới nhiều hiệu ứng của bức
ảnh như chiều sâu ảnh trường, độ nhiễu, v.v…
Hiện tượng thiếu sáng ở góc ảnh (vignet):
Underexposure of image corners produced deliberately by shading or
unintentionally by inappropriate equipment, such as unsuitable lens hood
or badly designed lens. A common fault of wide-angle lenses, owing to
reflection cut-off, etc. of some of the very oblique rays. May be
caused in some long-focus lenses by the length of the lens barrel. Hiện
tượng góc ảnh bị thiếu sáng (under-exposure) do người chụp cố ý tạo ra
hoặc xuất hiện ngoài mong muốn do sử dụng các thiết bị không phù hợp
như ống kinh kém chất lượng hay vành chắn ống kính (lens hood) không
thích hợp. Hiện tượng này cũng thường xảy ra ở các ống kích góc rộng do
một phần của chùm tia sáng qua ống kính không được phản xạ đầy đủ trên
phim hay cảm biến. Nhiều nhiếp ảnh gia đã tận dụng hiện tượng này để
tạo tính nghệ thuật đặc biệt cho các bức ảnh có độ tối và mờ ở góc và
viền ngoài của ảnh.
Bù phơi sáng (exposure compensation):
Bù phơi sáng là một khái niệm của nhiếp ảnh kỹ thuật số. Hình ảnh được
ghi nhận ở một máy ảnh KTS là kết quả của các tính toán được lập trình
trước trên máy. Căn cứ vào chế độ phơi sáng (với các yếu tố tốc độ cửa
chập, khẩu độ mở và ISO), máy ảnh KTS sẽ tính toán ánh sáng cho bức ảnh,
ví dụ ở chế độ ưu tiên tốc độ của chập (shutter priority), sau khi
được đặt ở một tốc độ nhất định, máy sẽ tính toán khẩu độ mở thích hợp
(theo lập trình trên máy) để cho ra một bức ảnh có ảnh sáng tốt nhất.
Tuy nhiên, trong nhiều trường khợp khác thường như nguồn sáng phân bố
không đều, hậu cảnh quá sáng hoặc quá tối ảnh hưởng tới toàn bộ cảnh
chụp, máy ảnh KTS sẽ đo sáng thiếu hiệu quả, dẫn đến ảnh quá sáng hoặc
quá tối. Để khắc phục điều này, người chụp có thể ghi chép lại các thông
số đo sáng tự động của máy, sau đó chuyển sang chế độ cơ hoàn toàn
(Manual / M) và điều chỉnh các yếu tố phơi sáng tăng giảm theo ý mình.
Tuy nhiên, làm như vậy rất mất thời giờ. Cách đơn giản hơn là tận dụng
chức năng bù phơi sáng có ở phần lớn các máy KTS, và ở tất cả các máy
DSLR. Với chức năng này, máy vẫn đặt ở chế độ nhất định và người chụp
chỉ cần điều chỉnh chỉ số bù phơi sáng (EV +/-) để làm cho bức ảnh sáng
hơn hoặc tối hơn so với những tính toán đo sáng của máy. Một trong
những ứng dụng phổ biến của chức năng bù phơi sáng là tăng sáng của ảnh
trong điều kiện hậu cảnh quá sáng. Trong trường hợp như vậy, nguồn
sáng đằng sau đối tượng muốn chụp quá sáng làm, làm cho máy bị đánh
lừa, tính toán ảnh tối đi, làm đối tượng cần chụp trở nên quá tối. Để
đối tượng cần chụp sáng và rõ chi tiết hơn, cần tăng bù phơi sáng (EV
+).
Gói phơi sáng (exposure bracketing):
Để điều chỉnh bù phơi sáng, người chụp cần điều chỉnh phơi sáng +/-
(thông thường là vừa ấn một nút “bù phơi sáng” và vặn tiến lui một bộ
phận nào đó trên thân máy). Với những khoảng khắc quan trọng, nhiếp ảnh
gia thường chụp một lúc 3 bức liền, một bức đúng như máy ảnh tính toán,
một bức bù phơi sáng cộng (sáng hơn) và một bức bù phơi sáng trừ (tối
hơn). Việc làm này gọi là gói phơi sáng (bracketing). Tuy nhiên, hiện
nay, nhiều máy ảnh DSLR có chức năng gói phơi sáng tự động nhanh và tiện
lợi hơn nhiều so với điều chỉnh từng bức ảnh.
Với chức năng này, nhiếp ảnh gia có thể chụp liền một lúc (thông
thường) 3 bức ảnh, một bức ở chế độ ánh sáng do máy đã đo đạc, một bức ở
chế độ cộng bù sáng và một bức ở chế độ trừ bù sáng (tỷ lệ cộng trừ
thường ở 1/3 EV). Để sử dụng chức năng này, bạn chỉ cần vừa bấm và giữ
một nút gói phơi sáng (BKT) và nhấn chụp. Máy sẽ tự động chụp liền 3
kiểu 0 +/- EV để bảo đảm cho ra một bức có ánh sáng tối ưu nhất.
Cân bằng trắng (white balance – WB):
Một chức năng của các máy ảnh (và máy quay video) kỹ thuật số giúp máy
nhận biết đúng các màu sắc khác nhau qui từ màu trắng chuẩn khi cân bằng
với các màu khác trong các môi trường ánh sáng khác nhau. Chức năng
cân bằng trắng giúp máy nhận biết thế nào là màu trắng chuẩn để từ đó
định nghĩa các màu sắc khác đúng (hay gần đúng) với mắt người nhận
biết. Chức năng này còn được nhiều nhiếp ảnh gia vận dụng để tạo các
hiệu ứng màu sắc mong muốn. Các chế độ mặc định thường thấy trên các
máy ảnh số ngày nay là: tự động cân bằng trắng (auto), đèn dây tóc hay
đèn đỏ (incandescent/tungsteng), đèn tuýp hay đèn nê-ông
(fluorescent/neon), trời nắng (sunlight), trời râm (cloudy), trong bóng
râm(shade), đèn ảnh (flash), hay theo nhiệt độ màu Kelvin (K).
JPEG hay JPG (đọc là: djây-péc-g):
Là định dạng ảnh nén kỹ thuật số do Hiệp hội báo chí và nhiếp ảnh qui
định. Định dạng JPEG/JPG là định dạng được dùng phổ biến trên các máy
ảnh kỹ thuật số và cũng là định dạng phổ biến nhất trên internet ngày
nay. Ưu điểm của định dạng này là giúp tạo được hình ảnh số với kích cỡ
tệp tin (file size) nhỏ. Tuy nhiên, nhược điểm chính của định dạng này
là làm mất màu sắc và cả chi tiết (lossy) do phải nén nhỏ lại. Khi chụp
ảnh kỹ thuật số, để bảo đảm thu nhận đầy đủ màu sắc và chi tiết lưu
vào tệp ảnh, luôn luôn nên để ảnh lớn tối đa mà máy ảnh kỹ thuật số cho
phép do càng nén nhỏ thì ảnh càng bị mất nhiều màu sắc và chi tiết.
Tuy nhiên, nếu dung lượng thẻ nhớ không cho phép, người chụp có thể
giảm kích cỡ ảnh theo nhu cầu sử dụng của mình như sử dụng để hiển thị
trên máy tính hay để in ảnh. Ảnh càng lớn thì khả năng phóng to (cả
trên màn hình vi tính và in ảnh trên giấy ảnh) không bị rạn vỡ chi tiết
và nhòe màu càng cao. Trên hầu hết các máy ảnh kỹ thuật số, các kích
cỡ mặc định thường được ký hiệu L / Large (lớn), M / Medium (trung
bình) và S / Small (nhỏ). Các thông số này có thể được kết hợp với Fine
(mịn) và Normal (thông thường); ví dụ ảnh Medium + Fine sẽ có kích
thước tệp tin lớn hơn so với Medium + Normal và cho hình ảnh đẹp hơn so
với Small + Fine. Những kích thước này có giá trị thực tế như thế nào
phụ thuộc loại máy ảnh và các phân chia trên từng máy ảnh. Để đánh giá
đúng và đặt chế độ phù hợp, người chụp nên thử các kích cỡ mặc định
trên máy, sau đó phân tích trên máy vi tính hay in thử để đặt chế độ
tối ưu trong các trường hợp khác nhau.
RAW (đọc là: ro):
Định dạng ảnh thô là một định dạng tệp tin ảnh kỹ thuật số thường thấy
trên các máy ảnh số DSLR. Ở định dạng RAW, ảnh không bị nén nhỏ lại sau
khi đã chụp. Khi đặt ở chế độ ảnh thô (raw), máy ảnh kỹ thuật số sẽ lưu
lại toàn bộ các thông số về ánh sáng và chi tiết của một kiểu ảnh (với
khả năng tối đa của từng máy). Vì thế, định dạng raw cho hình ảnh giàu
thông tin và chi tiết hơn, tạo khả năng chỉnh sửa tốt hơn trên các
phần mềm chỉnh sửa ảnh số. Nhược điểm của định dạng raw là kích thước
tệp ảnh lớn và bắt buộc phải xử lý bằng phần mềm trước khi có thể sử
dụng trên internet hay đem in ảnh. Với định dạng raw, tất nhiên người
chơi ảnh phải biết thêm cách sử dụng các phần mềm chỉnh sửa ảnh mà đôi
khi hết sức phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian nghiên cứu và thực tập
mới làm chủ được. Ghi chú: Nhiều máy ảnh cho phép người chụp lưu ảnh
trên hai định dạng cùng lúc (vừa JPEG vừa RAW). Hãy tìm hiểu kỹ máy ảnh
của bạn để sử dụng hiệu quả hơn.
EXIF (Exchangeable Image File):
Định dạng tệp tin ảnh kỹ thuật số qui chuẩn với nhiều thông số kỹ thuật
trong đó có thông số về: thời gian phơi sáng (exposure time), tiêu cự
(f-number), tiêu cự (focal length), chỉ số ISO, khẩu độ mở (apature),
ngày tháng (date/time), chế độ lấy nét (metering mode), chế độ đèn
(flash), loại máy ảnh sử dụng (camera model), phần mềm sử dụng để xử lý
ảnh (software), và các thông số khác. Ghi chú: Khi đăng tải ảnh trên
internet, bạn cần lưu ý có nên giữ các thông số này hay nên xóa bỏ khỏi
thông tin EXIF (EXIF data).
Tuesday, June 4, 2013
Share This To :
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
0 comments:
Post a Comment